Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: mọi tật bệnh trong Đảng và trong mỗi cán bộ đảng viên đều do chủ nghĩa cá nhân (CNCN). CNCN là một loại giặc, nó còn ác hơn cả giặc ngoại xâm. Bởi vì, CNCN ở ngay trong con người ta, trong tổ chức của ta, không thể dùng súng, dùng lựu đạn để tiêu diệt nó. Đấu tranh chống nó cực kỳ khó khăn và phức tạp. Trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch CNCN” của Bác với bút danh T.L đăng trên báo “Nhân Dân” cơ quan Trung ương của Đảng Lao động Việt Nam ngày 3-2-1969, Người đã chỉ rõ những tật bệnh bắt nguồn từ CNCN: “Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị, quyền hành. Họ tự cao, tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ. Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân”(1) “CNCN đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí… Nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân của nó, những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng ham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân. CNCN là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội, Người cách mạng phải tiêu diệt nó”.(2) CNCN xuất hiện và phát triển khá mạnh lúc Bác viết tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch CNCN”. Thời điểm đó một năm sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy 1968 - Mậu Thân. Tổn thất của bộ đội ta là rất lớn. Ở miền Bắc, để hoàn thành nhiệm vụ cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam, Nhà nước ta đã tổng động viên, động viên cả nữ thanh niên, cả sinh viên, cả giảng viên, tiến sĩ, phó tiến sĩ lên đường - Cả nước lên đường với khẩu hiệu tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Một số cán bộ, đảng viên, kể cả một bộ phận có chức, có quyền đã sợ hy sinh, gian khổ, tạo ra lý do để trốn tránh việc ra tiền tuyến, tìm cách ở lại hậu phương để yên phận. Không chỉ lo cho bản thân họ, mà còn tìm cách cho con cái họ không phải nhập ngũ, đó là đưa sang các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Trung Quốc, CHDC Đức, Ba Lan, Bungari, Rumani, Tiệp Khắc… để học tập. Họ làm thì như vậy, nhưng nói rất hay, hô hào và động viên người khác đi chiến đấu, hy sinh… Khi đã ở lại được hậu phương, họ lại tìm cách “ăn chặn” hàng tiêu dùng được Nhà nước phân phối cho các gia đình, đặc biệt là các gia đình có thân nhân là liệt sĩ, thương binh hoặc đang có thân nhân chiến đấu ở chiến trường. Cả nước gian khổ, khó khăn, còn họ chỉ lo vun vén, phởn phơ, sung sướng… Trong Đảng ta, ngay từ lúc đó đã xuất hiện loại “giặc nội xâm này”, vì vậy, trong “Di chúc” trước lúc đi xa, có một điều Bác dặn đó là: Sau khi đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, công việc đầu tiên: phải chỉnh đốn lại Đảng nhằm loại bỏ những phần tử thoái hóa, biến chất, làm cho Đảng mạnh và sạch - một đảng là đạo đức, là văn minh. Để quét sạch CNCN, theo Bác, toàn Đảng và mỗi đảng viên phải thực hiện những công việc hết sức cụ thể như sau: Đảng phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ, đạo đức của người đảng viên. Trong thực tế công tác xây dựng, Đảng ta đã chưa thật sự thực hiện tốt điều dặn này của Bác, nhất là giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Trong xây dựng các nội dung, chương trình, từ chương trình bồi dưỡng phát triển đảng viên mới, chương trình bồi dưỡng đảng viên mới, chương trình sơ cấp, trung cấp, cao cấp chính trị, ít thấy hoặc không có bóng dáng của các chuyên đề giáo dục đạo đức. Nếu xem nhẹ việc giáo dục đạo đức, giáo dục lý tưởng thì dễ dẫn tới sự phai nhạt lý tưởng và xuống cấp về đạo đức và khi đạo đức đã xuống cấp thì những biểu hiện phi đạo đức sẽ có cơ hội lộng hành. Đảng viên và cán bộ hoạt động và sinh hoạt hằng ngày gắn liền với tổ chức và quần chúng. Vì vậy, Bác dặn : “Phải thực hành tự phê bình và phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên”. Có phải chăng tự phê bình và phê bình trong Đảng, trong một số tổ chức Đảng chưa thật sự nghiêm túc? Chính sự chưa thật nghiêm túc này, nên có nơi, chuyện bé xé ra to, mâu thuẫn, mất đoàn kết. Chính sự chưa nghiêm túc này, nên có nơi “Dĩ hòa vi quý” ai cũng tốt, tốt “giả” đến nỗi một cán bộ lãnh đạo của một cơ quan có đảng viên phạm tội đã phát biểu: Trước khi bị bắt, các đồng chí ấy đều là đảng viên loại I! Về tự phê bình và phê bình, đã có lần Bác viết thành một tác phẩm và ngay trong “Di chúc” Bác cũng căn dặn tỉ mỉ điều này. Bác coi tự phê bình là cách tốt nhất để nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên. Người đã bổ sung thêm vào một câu sau khi nói tự phê bình và phê bình là: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Hiểu một cách đơn giản, tự phê bình và phê bình là chân tình chỉ cho nhau những ưu điểm, đặc biệt là những khuyết điểm, hạn chế để mỗi người, mỗi tổ chức thấy, vạch ra kế hoạch khắc phục sửa chữa. Nếu không chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm thì lúc đầu khuyết điểm còn nhỏ, sau lớn dần lên thành bệnh. Bệnh nhẹ, sau đó nặng thêm, đến một lúc nào đó, hết cách chữa. Cái khó của tự phê bình và phê bình là: Thuốc đắng giã tật, sự thật mất lòng. Thường người ta khó nghe lời nói thật, cho nên sự thật của những khuyết điểm thường được bưng bít, che đậy, do chỗ thiếu thường xuyên mổ xẻ, gột rửa cho sạch sẽ. Tự phê bình và phê bình không chỉ là công việc của Đảng của tổ chức Đảng, mà còn là trách nhiệm của quần chúng trong xây dựng Đảng. Có được sự phê bình chân tình của quần chúng chắc chắn tổ chức Đảng và đảng viên sẽ tốt hơn. Những hành vi cá nhân chủ nghĩa sớm bị quần chúng giám sát, phát giác. Để quét sạch CNCN, Bác còn dặn, phải sinh hoạt chi bộ nghiêm túc. Kỷ luật phải nghiêm minh. Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ. Kỷ luật tạo thành sức mạnh của tổ chức, thậm chí nó tạo thành sự đoàn kết gắn bó, quyết tâm, thống nhất. Một tổ chức lỏng lẻo, kỷ luật lỏng lẻo sẽ mất sức chiến đấu. Chấp hành ý thức tổ chức kỷ luật một cách tự giác nghiêm minh là một trong những biểu hiện đạo đức cách mạng của đảng viên. Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch CNCN, điều mấu chốt, cốt lõi nhất là ở sự tu dưỡng rèn luyện của mỗi cá nhân đảng viên. Mỗi con người đảng viên phải tự tu dưỡng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư và không ngừng học hỏi, học tập để không ngừng nâng cao tri thức và phẩm chất của mình, của gia đình mình. CNCN ở ngay trong con người đảng viên. Lúc nào “khỏe” trong mình, “nó bẹp” xuống. Lúc nào “yếu”, những cám dỗ đời thường vẫy gọi, nó vùng dậy, rủ rê người ta sa vào vũng bùn của CNCN. Chính vì vậy, Bác dạy, tu dưỡng đạo đức phải bền bỉ, quanh năm, suốt đời. Trước mỗi sự việc và hành vi, mỗi con người đảng viên phải cân nhắc để làm việc thiện, có đức, có nhân. Việc tu dưỡng và rèn luyện của mỗi người phải được thực hiện trong phong trào cách mạng của quần chúng, bằng sự gần gũi, lắng nghe và tôn trọng ý kiến của quần chúng góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của quần chúng và nâng cao tâm đức của chính mình. Để tu tâm, tích đức, loại bỏ cái thất đức, thất tâm đã có lần Bác dặn: Người xưa sau mỗi ngày làm việc, lấy hạt đậu trắng đo việc thiện, hạt đậu đen đo việc chưa tốt, đếm và và bỏ các hạt ấy vào hai cái lọ, để xem mình đã làm được bao nhiều điều tâm đức và còn bao nhiều điều cần phải sửa, để ngày mai làm nhiều việc thiện hơn cho mình, cho đời. Nếu mỗi đảng viên làm được như vậy, toàn Đảng làm được như vậy, CNCN sẽ không còn đất để tồn tại. Bài 6: Chống chủ nghĩa cá nhân - giặc nội xâm Đạo đức cách mạng - Đạo đức Hồ Chí Minh là sự kế thừa những tinh hoa đạo đức nhân loại, đặc biệt là những nét đẹp của đạo đức phương Đông, của Đức Khổng Tử và Đức Phật. Khổng Tử chưa nói đến chủ nghĩa cá nhân (CNCN) mà nói đến một loại người chỉ biết có mình, loại đó là tiểu nhân. Đức Phật cũng chưa đề cập CNCN mà Người mới chỉ đề cập đến nghiệp chướng, quả báo tất yếu của ở hiền gặp lành hay “ác giả, ác báo”. Một trong những nguyên nhân của quả báo được Đức Phật chỉ ra đó là tham, sân, si (tham lam, giận dữ, mê muội hay ngu muội)… Bác Hồ đã kế thừa lời dạy của các bậc tiền nhân, soi vào đời sống hiện thực và hành vi hiện thực của tiểu nhân, của lòng tham và sự thỏa mãn lòng tham của một số người, trong đó có một bộ phận không nhỏ là cán bộ, đảng viên đó là họ đã mắc phải bệnh cá nhân chủ nghĩa, đã sa vào CNCN. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định nghĩa bệnh CNCN: “Ngày thường thì kỷ luật kém. Khi có vấn đề nghiêm trọng thì hoang mang. Lúc tính toán công việc, thì đặt lợi ích của cá nhân mình, của nhóm mình lên trên lợi ích chung”.(1) “Họ mang nặng CNCN, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”. Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh, trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao, tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ. Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân” (2) Bác Hồ tại mặt trận Đông Khê (1950) Chủ nghĩa cá nhân - Theo Bác, nó là một loại giặc, nguy hiểm hơn cả thực dân, đế quốc. Bởi vì, thực dân, đế quốc là kẻ thù, chúng ta thấy, có thể dùng vũ khí, dùng súng và lựu đạn để tiêu diệt. Còn CNCN thì hết sức gian giảo, xảo quyệt, nó ở ngay trong lòng ta, trong mỗi người, trong tổ chức của ta và đôi khi nó được che đậy bởi những hành vi, những lời nói vô cùng cách mạng, vô cùng hoa mĩ, thậm chí nó được che đậy bởi cả chức tước và quyền hành ở một số người. Đảng và nhân dân ta vô cùng mong ước đảng viên và cán bộ ta chức càng cao, đức càng dày, càng tích được nhiều đức, đó là chính cái phúc của non sông, niềm tự hào của dân tộc. Những người cán bộ, đảng viên đó như tấm gương trong soi cho những người khác và toàn dân. Ngược lại, nếu một bộ phận cán bộ, đảng viên giữ những trọng trách trong bộ máy của Đảng và Nhà nước mà sa vào CNCN sẽ gây thiệt hại đến uy tín danh dự của Đảng, của cơ quan, tổ chức và đơn vị đối với nhân dân. Vì CNCN mà một bộ phận cán bộ, đảng viên sinh ra các bệnh sau: Bệnh nể nang: Đồng chí mình mắc khuyết điểm, lẽ ra phải kỷ luật với một hình thức tương xứng, nhưng vì cảm tình nên chỉ phê bình qua loa cho xong chuyện. Thậm chí có nơi còn che đậy cho nhau, lừa dối cấp trên, giấu giếm đoàn thể. Có trường hợp cấp trên cử đoàn kiểm tra về, lại tìm mọi cách mua chuộc cả đoàn kiểm tra. Sự thật không được phanh phui, cái xấu vẫn được dung dưỡng - một mầm bệnh nan y bắt đầu phát triển. Quần chúng không chỉ nghi ngờ sự sai phạm từ đơn vị, từ tổ chức mà còn nghi ngờ, thiếu tin cả hệ thống tổ chức. Bệnh kéo bè kéo cánh, cục bộ, bản vị. Bác dùng từ “cánh hẩu” trong một bộ phận cán bộ có chức, có quyền. Bè cánh được xây dựng từ những người có họ hàng, là bà con, cháu, chắt, thân tín, thậm chí mở rộng ra là người cùng xóm, cùng quê; rồi “chén chú chén anh”, tung hô nhau, ủng hộ nhau, dùng số đông, lợi dụng và bóp méo nguyên tắc tập trung dân chủ, dồn những người dù có tốt, có tài nhưng không “hẩu” xuống để “tiêu diệt”, để cát cứ, thao túng “… Vì ham danh vọng và địa vị, cho nên khi phụ trách một bộ phận nào, thì lôi người này, kéo người khác, ưa ai thì kéo vào, không ưa thì tìm cách đẩy ra. Thế là chỉ biết có mình, chỉ biết có bộ phận mình…”. (3) Bệnh “cá nhân”: Đây là loại bệnh mà người mắc bệnh có khi được đánh giá là có “đức”, “hiền lành”, luôn luôn biết “đoàn kết”… Những người này thông thường trong cuộc họp, hội nghị, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, được lòng hết cả mọi người. Nếu có nói thì “khiêm tốn” nói bên ngoài, nói ở quán nước hoặc nơi nhậu nhẹt, chơi bời, thậm chí chờ bên nào có xu hướng “thắng” thì giơ tay ủng hộ. Rồi luồn cúi, đi “cửa sau”, thưa dạ, bẩm vâng, xun xoe, nịnh bợ. Những người này khi đã đạt mục đích “leo lên” rồi bắt đầu nịnh trên, nạt dưới, xây dựng bè cánh… Bệnh hữu danh vô thực: “Làm việc không thiết thực, không từ chỗ gốc, chỗ chính, không từ dưới làm nên. Làm cho có chuyện, làm lấy rồi. Làm được thì ít, suýt ra thì nhiều, để làm báo cáo cho oai, nhưng xét kỹ lại thì rỗng tuếch” (4). Bác coi đây là một loại bệnh nguy hiểm. Bệnh thiếu trung thực, làm thì láo, báo cáo thì hay, có lúc có nơi, chúng ta đã gọi là bệnh thành tích. Do chạy theo thành tích mà vẽ vời, khoa trương, dối trá. Những khuyết điểm, hạn chế thì giấu giếm, đậy điệm lại, còn thành tích thì thổi lớn lên, để được khen, được nhận danh hiệu này, huân chương nọ, nhưng tai hại vô cùng. Bệnh hữu danh vô thực không chỉ có trong cá nhân đảng viên mà còn có trong cả tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước. Thực chất của bệnh này là sự giả dối thậm chí đạt tới mức lường gạt người khác, lường gạt tổ chức. Bệnh tham lam: “Những người mắc bệnh này thì đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc, do đó mà chỉ “tự tư, tự lợi”. Dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình. Sinh hoạt xa hoa, tiêu pha bừa bãi. Tiền bạc đó ở đâu ra? Không xoay của Đảng thì xoay của đồng bào. Thậm chí làm chợ đen, buôn lậu. Không sợ mất thanh danh của Đảng, không sợ mất danh giá của mình. Bệnh lười biếng - Thực chất của bệnh lười biếng là đối lập với đức “cần”. Lười biếng biểu hiện ở sự thỏa mãn với sự học, cái vốn có của mình, “làm biếng suy nghĩ. Việc dễ thì giành lấy cho mình. Việc khó thì đùn cho người khác. Gặp nguy hiểm thì tìm cách để trốn tránh” (5). Bệnh tham ô: Tham ô là lấy của công, chiếm dụng của công làm của tư. Nó có hại đến sự nghiệp xây dựng nước nhà, có hại đến công việc cải thiện đời sống nhân dân, có hại đến đạo đức cách mạng… Lãng phí, không trực tiếp ăn cắp, ăn trộm của công nhưng kết quả tai hại đến tài sản của nhà nước, của tập thể. Lãng phí có nhiều hình thức, hoặc vì lập kế hoạch không chu đáo làm xong rồi lại phá đi làm lại hoặc không sử dụng được, hoặc vì xa xỉ, phô trương hình thức, nào liên hoan, nào “báo chí”, nào “kỷ niệm”, sắm sửa lu bù, xài tiền như nước… Bệnh lãng phí, tham ô gắn liền với bệnh quan liêu, bệnh thiếu sâu sát, qua loa, đại khái, suy cho cùng, cũng do CNCN sinh ra. Có trường hợp biết làm việc đó không hiệu quả nhưng vẫn cứ làm vì nó đem lại cái lợi cho riêng mình, còn cái không có lợi là Nhà nước chịu, dân chịu. Có trường hợp không biết nên cứ làm. Làm có lợi cho cá nhân và nguyên nhân suy cho cùng của trường hợp này là do lười biếng, do kém cỏi sinh ra… Từ cá nhân chủ nghĩa mà đẻ ra hàng trăm thứ bệnh biểu hiện hết sức phong phú và đa dạng trong thực tế cuộc sống hằng ngày. Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý, trong đấu tranh chống CNCN, nâng cao đạo đức cách mạng phải bảo vệ lợi ích cá nhân, không được giày xéo lên lợi ích cá nhân. Lợi ích cá nhân là những quyền lợi chính đáng của cá nhân, những sở thích cá nhân, là cái riêng có của mỗi người, đó chính là những quyền tạo nên nền tảng vững chắc của đạo đức cách mạng. Lợi ích cá nhân chính đáng được phát triển và bảo vệ chính là biểu hiện phong phú của một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Lợi ích cá nhân được biểu hiện trước hết là công bằng trong lao động. Người nào làm nhiều, làm tốt sẽ được hưởng nhiều. Người nào làm xấu, làm biếng, làm dở, thì được hưởng ít. Phân phối cào bằng hoặc tạo ra hiện tượng chạy chọt, giả dối để kẻ làm dở được hưởng lợi nhiều hơn so với người làm tốt, làm có chất lượng, đó chính là hiện tượng xâm phạm lợi ích chính đáng của cá nhân. Sự giàu có chân chính từ trí tuệ, từ tài năng, từ sức lao động, thậm chí có một chút may mắn của một số cán bộ, đảng viên đó là lợi ích chính đáng phải được khuyến khích và bảo vệ. Điều này hoàn toàn khác với một vài biểu hiện của CNCN như lợi dụng chức vụ, quyền hạn để được hưởng lợi từ những thông tin, từ những điều kiện để có lợi. Đấu tranh chống CNCN là một việc làm không dễ. Nó chính là cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, chống suy thoái về lý tưởng, về đạo đức và lối sống hiện nay trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Cuộc đấu tranh chống nó không hề dễ dàng, bởi vì nó gắn liền với quyền và lợi ích. Ở một số người tha hóa đã có sự liên kết, gắn bó chi phối lẫn nhau có một lớp vỏ bọc nhiều tầng lớp. Cuộc đấu tranh chống CNCN không dễ, bởi vì CNCN ở trong mỗi con người, ở trong mỗi tổ chức, biểu hiện ra muôn hình vạn dạng. Sinh thời, Bác đã có nhiều bài viết đấu tranh chống CNCN, Đảng ta đã có nhiều cuộc vận động, đấu tranh chống CNCN. Những năm gần đây Đảng có nhiều nghị quyết, Nhà nước có những văn bản pháp luật để phòng, chống CNCN, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu nhưng hiệu quả chưa rõ rệt. Loại giặc nội xâm này đang hằng ngày hằng giờ gặm nhấm danh dự và uy tín của Đảng và chế độ. Thậm chí đã có nghị quyết của Đảng nói đến nguy hại của nó là đang đe dọa sự tồn tại của Đảng và của chế độ ta. Cuộc đấu tranh chống CNCN đã bước đến thời điểm hết sức quyết liệt, liên quan đến sự tồn vong của dân tộc và đất nước... |